Gần đây, vì sự trưởng thành của cộng đồng Người Việt tại Quận Cam [cũng như California], nhất là dân số ở Westminster người Việt chúng ta đã bắt tham gia ứng cử vào những chức vụ dân cử trong thành phố.
Có lẽ đa số các bạn trẻ, thế hệ đàn em của tôi, lớn lên ở đây, và những người qua sau, diện HO, đoàn tụ gia đình... chỉ thấy được sự thành đạt và sung túc của những người đi trước, muốn được như họ, có bằng cấp đại học, có việc làm ổn định, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con ngoan, chồng giàu con giỏi... Và cho rằng chúng ta chỉ có thể phục vụ thành phố [hoặc cộng đồng] trong những chức vụ Nghị Viên Hội Đồng Thành Phố sau khi chứng ta đã đạt được những thành tựu nhất định, xây dựng được sự nghiệp, cũng như chu toàn được bổn phận với gia đình và cộng đồng. Bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội an ninh, ổn định và phồn vinh, suy nghĩ như vậy cũng rất hợp lý.
Nhưng khi tôi lớn lên ở Việt Nam, chiến tranh đã "ảnh hưởng" đến toàn bộ đời sống của người Việt. Ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi cùng gia đình phải trốn dưới gầm bếp để tránh bom đạn pháo kích. Những năm sau đó, bị qui tội Tiểu Tư Sản, kiểm kê tài sản, và bị ép đi kinh tế mới, gia đình tôi đã phải tổ chức vượt biên nhiều lần, không thành công, rồi bị bắt bớ, tịch thu tài sản, tù tội. Khi tôi ra đi bằng đường bán chính thức vào năm 1979 diện bán chính thức với anh Thomas Đào và BS Michael Đào. Chúng tôi đã đến quần đảo Nam Dương sau nhiều ngày lênh đênh trên biển.
Khi đến Ku Ku, một hoang đảo, và được chính quyền bản địa cho phép thuyền nhân lên đó cư trú. Những thuyền nhân tỵ nạn đã phải tự bươn chải, lên rừng đốn cây làm nhà, ra biển đánh cá, qua Singapore để mua thực phẩm và những đồ dùng cần thiết. Người có mang theo vàng bạc, tiền của, thì còn khả dĩ xoay sở được. Nhưng những người kém may mắn hơn, tứ cố vô thân, không có thân nhân giúp đỡ, phải tự mình bươn chải, lúc nào cũng đối diện với đói lạnh và cái chết. Hằng ngày chúng tôi đều phải chôn cất những thân phận bất hạnh đó. Mồ mả đào ngay cạnh giòng suối cả đảo dùng để tắm rửa, ăn uống. Sau này, nhờ một số nhân vật có khả năng và uy tín, đứng ra thành lập Ban đại Diện đảo, mới ổn định được tình hình trên đảo, cứu mọi người thoát khỏi nguy cơ bệnh dịch.
Hằng ngày, chúng tôi phải chứng kiến thảm cảnh những thuyền nhân đến sau, bị kéo từ Mã Lai sang, khi trại tỵ nạn bên đó bị đóng cửa. Vì bị tàu Hải Quân Mã Lai cột lại từng xâu bốn năm ghe, những thuyền gỗ của người tỵ nạn bị vỡ tan từng chiếc, từng chiếc trên biển. Thường chỉ có một, hai chiếc đầu tiên là còn nguyên vẹn, đến được Nam Dương. Từng đoàn người than khóc rất bi ai, khi kể lại cảnh phải chứng kiến người thân của họ bị chết chìm ngay trước mặt, mà bản thân họ không thể làm gì được. Rồi những câu chuyện về hải tặc Thái Lan. Chuyện những cô gái chỉ mới dậy thì, bị hãm hiếp nhiều lần. Những ông chồng phải nhìn vợ, con bị làm nhục ngay trước mắt...
Khi mới qua Mỹ, thuyền nhân chúng tôi còn bị những người bản xứ khinh khi, kỳ thị. Mỗi ngày, khi còn học trung học, chúng tôi đều phải đối diện với những tên Mỹ con xấc xược và ngang ngược, mạ lỵ chúng tôi bằng những ngôn từ khinh miệt nhất, vì lúc đó, người Việt chúng ta ở Quận Cam cũng còn rất ít, đa số vẫn phải hưởng trợ cấp, dùng phiếu thực phẩm... và tương đối chưa quen thuộc lắm với cuộc sống văn minh nơi xứ người.
Bookmarks