[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/illo-failed-investigation-900*673-4edb99.png[/IMG]
Chỉ 24 giờ sau cái chết của Dương Trọng Lâm ngày 21 tháng 7 năm 1981, một thám tử cảnh sát ở San Francisco đưa ra một danh sách ngắn bao gồm những động cơ có thể giải thích nguyên nhân vì sao nhà xuất bản báo 27 tuổi bị bắn chết bên ngoài căn hộ của mình. Một số nguyên nhân thám tử này đưa ra rất bình thường: có thể vì tình yêu, có thể vì tiền.
Nhưng hồ sơ cảnh sát cho thấy thám tử có lý do để xem xét một động cơ khác: chính trị. Ông Lâm và tờ báo ông sáng lập được xem là có thiện cảm với Cộng Sản Việt Nam, và ông đã bị đe dọa bởi một số người trong cộng đồng người Việt vốn coi ông là kẻ phản bội.
Chỉ trong vài ngày sau cái chết của ông Lâm, một thông cáo gửi đến Associated Press công khai nhận trách nhiệm và cho rằng ông Lâm đã bị trừng phạt bởi vì ông ủng hộ Cộng Sản. Vài tuần sau đó, bạn bè của ông Lâm chính thức gửi thư cho cảnh sát địa phương và FBI, trích dẫn thông cáo này và bày tỏ lo ngại rằng vụ ám sát ông Lâm là một phần của mô hình bạo lực với động cơ chính trị càng ngày càng lang rộng.
Tuy nhiên, những hồ sơ và tài liệu phỏng vấn cho thấy các nhà chức trách đã bác bỏ điều này. Dưới áp lực từ bạn bè của ông Lâm, các công tố viên liên bang hỏi FBI rằng, vụ giết hại ông Lâm liệu có phải là “một hành động có thể mang tính khủng bố” hay không. FBI vẫn giữ quan điểm của mình rằng việc giết hại này không mang tính chính trị.
Cuối cùng, các đặc vụ bỏ nhiều năm điều tra một chuỗi các tội ác tương tự xảy ra trong những khu người Việt – một cách riêng biệt, tại những chi nhánh điều tra trên toàn quốc – trước khi nhận ra sai lầm của họ: Họ tin rằng không chỉ là ông Lâm bị giết vì đã bày tỏ quan điểm của mình, nhưng ông là một trong nhóm nhà báo người Việt bị ám sát bởi một tổ chức có ước mơ một ngày nào đó chiếm lại Việt Nam và sẵn sàng thủ tiêu bất cứ ai thách thức nó. Đến lúc đó, FBI nghi ngờ rằng một tổ chức, được gọi là Mặt Trận, là thủ phạm đứng sau lưng các vụ ám sát ở California, Texas và Virginia, cũng như hàng loạt các vụ phóng hỏa, đánh đập và đe dọa trên toàn nước Mỹ.
Năm 1995, FBI hợp nhất khoảng hai chục vụ án thành một “vụ án lớn,” và thành lập một đội đặc vụ nhằm theo đuổi những manh mối. Tuy nhiên, họ vẫn không thành công trong việc truy tố Mặt Trận về mặt hình sự cho những hành động bạo lực nêu trên.
Cuộc kiểm tra các tài liệu điều tra về Mặt Trận từ các cơ quan địa phương và liên bang của ProPublica và Frontline cho thấy chúng được thực hiện với sự thiếu chuyên môn, nguồn lực, tính khẩn cấp và thậm chí đôi khi là sự tò mò cơ bản. Các lời mách bị lờ đi và các manh mối thì bị lãng quên. Mặc dù một số điều tra viên làm việc nghiêm túc và siêng năng, các nguồn tin quan trọng không hề được triển khai. Theo lời của các điều tra viên, việc nghe lén, một biện pháp thông dụng dùng để giúp thâm nhập vào các tổ chức bí mật, không hề được sử dụng. Các đặc vụ thường phải cầu xin được cung cấp những nguồn lực cơ bản như người phiên dịch. Và, điều cản trở nhiều hơn trong quá trình điều tra, là vụ án này thiếu hấp dẫn đối với các đặc vụ FBI giỏi và giàu kinh nghiệm nhất; trong một thời đại của những vụ án nổi tiếng khác, vụ này sẽ không làm nên sự nghiệp cho ai cả.
FBI đóng vụ điều tra này vào cuối thập niên 1990. Trong một tuyên bố gởi đến ProPublica và Frontline, họ nói rằng các điều tra viên tài năng đã làm việc kiên trì, nhưng đơn giản là họ không thể tìm ra đủ bằng chứng để duy trì việc truy tố các tội phạm khủng bố. Các cơ quan thực thi pháp luật ở địa phương, bao gồm sở Cảnh Sát San Francisco, không đưa ra bình luận về các vụ án này.
ProPublica và Frontline phỏng vấn năm người mà đã trực tiếp tham gia vào cuộc điều tra của FBI, cũng như các thám tử cảnh sát địa phương. Chúng tôi thu được những hồ sơ vụ án 30 tuổi và các báo cáo điều tra từ bảy phạm vi quyền lực pháp lý. Chúng tôi nói chuyện với ít nhất 10 người được xác định trong các tập hồ sơ là nghi phạm của những tội ác này.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/lam-communique-tinted-900*1200-5c0f70.JPG[/IMG]
Tổ chức Việt Nam Diệt Cộng Hưng Quốc Đảng nhận trách nhiệm cho việc giết hại ông Dương Trọng Lâm. Những nhà điều tra tin rằng tổ chức này là một ngụy danh của Mặt Trận.
Đối với các nhân viên thực thi pháp luật mà đã tham gia cuộc điều tra về Mặt Trận một cách chặt chẽ nhất, sự bất lực trong vụ án này vẫn còn ám ảnh họ.
Bà Katherine Tang-Wilcox, một cựu đặc vụ FBI, người đứng đầu nhóm điều tra trong nhiều năm, vẫn còn nhớ rất rõ bản tóm tắt về bạo lực và thương vong mà cục điều tra tin rằng Mặt Trận đã gây ra: các vụ ám sát chuyên nghiệp, các đe dọa giết và tuyên bố nhận hành vi tội phạm, sự mất mát của các gia đình người chết. Bà cho biết vụ án này đã cho bà một ung nhọt và vì vậy bà phải về hưu. Nhưng bà không nghĩ rằng các vụ án này phải đóng lại.
“Các vụ án này có nên được tái mở nếu khám phá được thông tin mới hay không à? Vâng, nên chứ,” bà Tang-Wilcox cho ý kiến. “Bởi vì nếu có một người đứng ra cung cấp thông tin trước, điều đó sẽ khuyến khích những người khác làm theo. Có người biết những kẻ chịu trách nhiệm cho mỗi và tất cả những hành vi này. Phải có người biết. Và tội giết người thì không có pháp quy về thời hiệu.”
Dương Trọng Lâm bị bắn vào ngực khoảng sau 11 giờ sáng trên đường phố của khu phố Tenderloin, San Francisco. Ông cố gắng lê người khoảng 20 feet trước khi ông ngã quỵ xuống vỉa hè. Những nhân chứng cho cảnh sát biết có những tiếng la hét, và một, có thể là hai, người đàn ông châu Á đã bỏ trốn khỏi hiện trường.
Gia đình và bạn bè của ông Lâm nhanh chóng cho các thám tử biết là ông Lâm không thiếu kẻ thù. Tờ báo ủng hộ Cộng Sản của ông bị nhiều người ghét. Ông đã bị đe dọa suốt nhiều tháng. Chị của ông, bà Nancy Dương, cũng bị đe dọa khi một người đàn ông chĩa súng vào đầu bà.
“Họ nói, ‘Mày là Việt Cộng! Hãy cút khỏi đất nước này,’” bà Nancy Dương nhớ lại.
Napoleon Hendrix và Earl Sanders là những thám tử của Sở Cảnh Sát San Francisco được giao phụ trách vụ án của ông Lâm. Họ không quan tâm mấy đến quan niệm cho rằng vụ ám sát ông Lâm có động cơ chính trị.
“Nếu đó là một vụ ám sát chính trị,” Sanders nói với một tờ báo địa phương trong năm 1981, “thì kẻ giết người nên quay lại trường sát thủ mà học lại.”
Có lý hơn đối với ông Hendrix và Sanders, là một quan điểm cho rằng vụ ám sát là kết quả của một mâu thuẫn về tiền bạc. Họ bắt và buộc tội một người đàn ông làm nhân viên thu ngân và bồi bàn tại một nhà hàng do ông Lâm làm chủ. Nhưng cáo buộc này bị một thẩm phán bác bỏ.
Bà Nancy Dương cho biết, từ lúc đầu, bà đã nói với các nhân viên điều tra rằng quan điểm chính trị của ông Lâm rất có thể là lý do gây ra cái chết của ông. Bà thông báo cho họ về các lời đe dọa và các cuộc gọi điện thoại đến nhà bà tuyên bố nhận trách nhiệm cho cái chết của ông Lâm.
“Tôi cố gắng bằng mọi cách để cung cấp thông tin cho họ,” bà nói.
“Tôi nghĩ họ không quan tâm cho lắm.”
Những thông tin cơ bản trong câu chuyện về cuộc đời của ông Lâm lẽ ra đã cho thấy rõ nên bắt đầu quá trình truy lùng hung thủ ở đâu. Ông Lâm rời Việt Nam vào năm 1971 trong lúc cuộc chiến đang phá loạn đất nước. Khi ông đến Mỹ, ông theo học tại trường cao đẳng ở Oberlin, Ohio và, sau đó, trường Đại học California ở Berkeley. Đây là những trường học tự do, và là một sinh viên, ông Lâm đã phản đối cuộc xung đột đẫm máu tại Việt Nam. Sau đại học, ông chuyển đến San Francisco – với mái tóc hippie xù xì và chiếc xe Volkswagen bug cũ nát – nơi ông đã thuê một căn hộ rẻ tiền và lao mình vào một loạt các dự án, bao gồm những gì đã trở thành tờ nguyệt san của ông, Cái Đình Làng.
Ông xuất bản tờ báo ủng hộ chính quyền Cộng Sản chiến thắng tại Hà Nội vào mùa hè năm 1980. In bằng tiếng Việt, ông mô tả tờ báo này như một tập san của “thông tin” và “hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.” Những bài ông đăng không luôn hấp dẫn; một bài được lên trang nhất tường thuật về một hội nghị giữa các nhà lãnh đạo của Việt Nam, Campuchia và Lào.
Tuy không thú vị, cách đưa tin như vậy đã kích động nhiều người trong cộng đồng người Việt tại Mỹ. Những ký ức của chiến tranh còn nguyên đó; những người có cảm tình với Hà Nội điều bị hận ghét.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/Lam-still-900*778-e1a45d.jpg[/IMG]
Dương Trọng Lâm là sinh viên của Trường Cao Đẳng Oberlin. (
Nguồn từ Tài liệu Lưu trữ của Trường Cao Đẳng Oberlin)
Nguyễn Đăng Khoa đã từng chiến đấu trong chiến tranh, và ông đã tham gia một chi hội Mặt Trận ở Oakland, California. Trong buổi phỏng vấn, chúng tôi hỏi ông về phản ứng của ông đối với vụ ám sát ông Lâm.
“Tất nhiên tôi rất vui mừng. Tôi đã rất hạnh phúc,” ông nói.
Không ngạc nhiên cho lắm, ông Lâm đã bị đe dọa rất nhiều lần trong năm duy nhất mà tờ báo của ông tồn tại. Một người bạn và chị của ông đã báo cáo điều này với các nhân viên điều tra.
“Trước khi ông ấy chết, khoảng hai tháng, anh biết không, ông đã liên tục nhận nhiều cuộc gọi điện thoại, rất nhiều thư cảnh cáo” người bạn nói với cảnh sát. “Tôi nghĩ có một tổ chức đứng đằng sau nó.”
Hendrix và Sanders, hai thám tử địa phương, cũng cố gắng nghiên cứu để hiểu thêm về câu chuyện đầy tình tiết và nỗi uất ức của cộng đồng Little Saigon. Nhưng bản ghi chép của những cuộc thẩm vấn mà họ đã tiến hành cho thấy sự mệt mỏi của họ - đối với những người không nói được tiếng Anh, hoặc những người mà họ cho là không thành thật.
Jayson Wechter, một nhà điều tra tư nổi tiếng ở San Francisco, người mà đã kiểm tra vụ giết hại ông Lâm trong đầu thập niên 1980, có viết về những khó khăn nêu trên trong một bài báo cho tạp chí Luật sư California (California Lawyer magazine).
Đến từ một quốc gia “với một hệ thống pháp lý nổi tiếng là tham nhũng, người Việt mang theo họ một định kiến lịch sử chống lại chính quyền và cơ quan pháp lý,” ông Wechter viết. Vào thời điểm đó, ông cho thấy, California chỉ có mỗi một cảnh sát biết nói tiếng Việt, một cựu lính Thủy Quân Lục Chiến đã từng tham gia chiến tranh.
Trên khắp nước Mỹ, những câu chuyện cũng giống như vậy. Ví dụ, ở Houston, không có người Mỹ gốc Việt nào tham gia vào quá trình điều tra ban đầu của cảnh sát trong vụ giết hại chủ báo Đạm Phong vào năm 1982. Cuộc điều tra sau đó của FBI cũng lúng túng bởi các vấn đề tương tự. Các đặc vụ tham gia vào những vụ án liên quan đến Mặt Trận không nói được tiếng Việt; các hồ sơ chứa rất nhiều thư từ nhóm đặc vụ yêu cầu trụ sở thuê thêm phiên dịch.
Năm 1984 có một lời kêu gọi “thuê gấp các nhà ngôn ngữ học.” Sáu năm sau đó, một bản ghi nhớ cho thấy một đặc vụ chuyên trách của văn phòng điều tra tại San Francisco vẫn còn yêu cầu trụ sở giúp đỡ. “Hiện tại chưa có ai, kể cả đặc vụ chuyên trách hoặc nhân viên hỗ trợ tại đơn vị San Francisco, có khả năng dịch tiếng Việt sang tiếng Anh,” ông ta trình bày. “Do đó, không có nguồn nhân lực nào để từ đó chúng ta có thể tìm được một nhà ngôn ngữ học.”
“Lúc đó có sự cách biệt văn hóa, và mọi người đều sợ lên tiếng,” cô Trang Q. Nguyễn, một nhà tư vấn cho các đơn vị truyền thông Việt ngữ ở Nam California, cho biết. Một số trong những người đó – dù ở San Francisco hay Houston, San Jose hoặc Virginia – không phải sợ nói chuyện với cảnh sát, mà sợ Mặt Trận phát hiện ra họ đã khai báo với cảnh sát.
Đoàn Văn Toại, một nhà báo và nhà hoạt động, đã bị bắn vào mặt năm 1989 tại Fresno, California. Tay súng chẳng hề bị bắt, và ông Toại hiếm khi nói công khai về trường hợp của ông. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn gần đây với ProPublica và Frontline, ông Toại nói rằng các nhà chức trách đã hoàn toàn thiếu sự chuẩn bị để điều tra trường hợp của ông và những vụ án tương tự. Tuy vậy, ông hiểu rõ tầm phức tạp của công việc của họ.
Còn về người dân trong cộng đồng người Việt, ông Toại nói, “Họ không bao giờ hợp tác.”
Dù vậy, vụ ám sát ông Lâm đã rơi vào giai đoạn đầu của chiến dịch sử dụng bạo lực của Mặt Trận, và cuộc điều tra dường như đã thiếu nỗ lực cơ bản nhất. Bạn bè và người thân của ông Lâm đã khai báo các lời đe dọa qua điện thoại, và sau này các cuộc gọi đến gia đình ông từ những người tự nhận là đã giết ông. Vậy mà không có bằng chứng nào trong hồ sơ vụ án cho thấy các thám tử đã kiểm tra danh sách điện thoại của ông Lâm hoặc của chị ông.
Vài tuần sau vụ giết người, các thám tử ở San Francisco nhận một thông điệp viết tay chỉ điểm một nghi phạm, đầy đủ họ tên, địa chỉ và số điện thoại. Nghi phạm được mô tả là một cựu sĩ quan cảnh sát miền Nam, người đã từng thẩm vấn những người bị tình nghi là Cộng Sản ở Sài Gòn. Thông điệp này còn nói người này hiện là thành viên của một tổ chức quân sự chống Cộng Sản: Mặt Trận.
Các thám tử San Francisco có thuê người dịch thông điệp này sang tiếng Anh. Nhưng họ không hề truy theo manh mối này. Trong hồ sơ vụ án dày hàng trăm trang, không hề có dấu hiệu nào cho thấy các thám tử đã thẩm vấn người đàn ông bị chỉ điểm trong thư tố giác.
ProPublica và Frontline đã tìm ra người đàn ông này ở San Jose và phỏng vấn ông ta. Ông nói đúng là ông từng là một sĩ quan cảnh sát ở Sài Gòn. Nhưng ông ta khẳng định rằng ông không dính liếu đến Mặt Trận và không phải là người giết ông Lâm.
Khi được hỏi ông có bao giờ nói chuyện với cảnh sát San Francisco về vụ ám sát này hay không, ông trả lời ngay: “Không.” Ông nói ông chỉ nói chuyện ngắn gọn với các đặc vụ FBI khoảng 15 năm sau vụ giết người.
Cho dù người đàn ông này có liên quan đến cái chết của ông Lâm hay không, điều mà các nhà chức trách đã hoàn toàn làm ngơ việc tìm hiểu manh mối này quá lâu là một nỗi day dứt của gia đình và bạn bè ông Lâm.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/nancy-duong-2up-900*495-6fa7c3.png[/IMG]
Chị ông Dương Trọng Lâm, bà Nancy Dương, vẫn không biết ai đã giết em mình. (
Jason Henry báo cáo cho ProPublica)
Những người ủng hộ ông Lâm cuối cùng đã bắt đầu khẩn cầu FBI và các công tố viên liên bang vào cuộc. Họ khẳng định rằng không chỉ vụ giết hại ông Lâm có dính liếu chính trị, mà còn một loạt hành vi bạo lực khác đã được thực hiện nhắm vào những ai ủng hộ một mối quan hệ bất bạo động với Cộng Sản Việt Nam. Cuối cùng, họ đã viết thư trực tiếp cho ông Joseph Russoniello, Chưởng lý Hoa Kỳ ở San Francisco lúc bấy giờ, và trình bày rằng, các thám tử ở San Francisco, “những người mà đã từ chối không điều tra những động cơ giết người liên quan đến chính trị,” đãđược thực hiện vụ án này một cách “cẩu thả.”
Ông Russoniello đã gửi một bức thư cho FBI và hỏi liệu có lý do gì để tin rằng việc giết hại ông Lâm là một hành động khủng bố hay không. Một đặc vụ cấp cao của FBI đã đến văn phòng của ông để cam đoan với ông là không có.
FBI vẫn giữ kết luận đó ngay cả sau khi có thêm nhiều nhà báo bị giết trong hoàn cảnh mang tính ám sát chính trị. Khi nhà xuất bản tạp chí Phạm Văn Tập bị sát hại tại miền Nam California năm 1987, các đặc vụ liên bang ở Los Angeles nhận thấy sự tương đồng giữa vụ ám sát của ông và vụ của ông Lâm. Họ đã liên hệ với đồng nghiệp của họ tại San Francisco để yêu cầu được gửi các hồ sơ liên quan đến vụ ám sát ông Lâm từ chi nhánh này.
“Các cuộc điều tra của Sở Cảnh sát San Francisco và FBI đã xác định rằng vụ ám sát ông Lâm là vì những lý do cá nhân, và thiếu bằng chứng cho thấy nó có động cơ chính trị,” một điều tra viên ở San Francisco đã hồi đáp như vậy. Được soạn thảo bởi một thành viên của một đội chống khủng bố FBI, bản ghi nhớ này được đánh dấu là “bí mật” và được gửi đi vào tháng mười hai năm 1987. FBI đã bảo mật tên của đặc vụ này trước khi giải mật các tài liệu và giao chúng cho ProPublica và Frontline.
Hiện nay, bà Nancy Dương vẫn giữ một ảnh trắng đen của em bà bên cạnh một bàn thờ Phật nhỏ. Trong ảnh, ông Lâm lúc đó còn trẻ và đang mỉm cười.
“Tôi không biết những gì đã xảy ra với em tôi,” bà nói, “ngay cả bây giờ.”
Nếu FBI đã bị cản trở trong việc làm sáng tỏ từng tội ác được cho là Mặt Trận thực hiện, có một cách khác để họ có thể lên án tổ chức này.
Đạo luật Trung lập của Mỹ (U.S. Neutrality Act) quy định là tội ác liên bang đối với bất cứ công dân Hoa Kỳ hoặc thường trú nhân nào hỗ trợ tài chính hoặc tham gia “bất cứ cuộc viễn chinh quân sự hay hải quân nào” nhằm chống lại một nhà nước “đang trong trạng thái hòa bình với Hoa Kỳ.”
Mặt Trận lúc ấy ít quan tâm cho lắm đến việc che giấu việc họ đang tham gia vào những hoạt động vi phạm Đạo luật này.
Họ tổ chức các sự kiện công khai ở các thành phố trên khắp nước, khẩn cầu người tham dự tặng tiền cho nỗ lực kháng chiến của mình. Những bức ảnh của “biểu tình kháng chiến” tại Santa Ana, California, Los Angeles và Washington DC, cho thấy những đám đông khổng lồ tụ tập về để ủng hộ mục tiêu của họ. FBI cũng thấy rằng Mặt Trận đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt ngữ trực tiếp liên kết tiền đóng góp với vũ khí; việc tặng một tấm séc ngân hàng cho tổ chức, bản quảng cáo hứa hẹn, sẽ cho phép tổ chức mua các loại vũ khí như súng trường tấn công và tên lửa vác vai.
Và thêm vào đó là trại quân sự của tổ chức được thành lập ở Thái Lan, nơi mà họ sẽ làm căn cứ để xâm lược Việt Nam. Những hình ảnh và đoạn phim của quân đội huấn luyện tại căn cứ đã được sử dụng để quyên thêm tiền, và một đoạn phim ngắn đã được kèm vào một mẫu chuyện về những tham vọng quân sự của Mặt Trận và phát sóng toàn quốc trên truyền hình CBS.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/illo-co-minh-in-jungle-900*912-85bfef.png[/IMG]
Nhưng hàng ngàn trang hồ sơ điều tra của FBI, cũng như các cuộc phỏng vấn với các cựu thám tử và các công tố viên, cho thấy họ đã không hề có lý luận nghiêm túc nào về trường hợp vi phạm Đạo luật Trung lập, ngay cả sau khi FBI nghi ngờ Mặt Trận đang tiến hành các vụ ám sát trên đất Mỹ.
ProPublica và Frontline hỏi FBI và văn phòng Chưởng lý Hoa Kỳ ở San Francisco rằng tại sao Mặt Trận chưa bao giờ bị khởi tố vì hành vi quyên tiền với mục đích lật đổ chính phủ Việt Nam. Cả hai không cung cấp câu trả lời nào.
Bà Tang-Wilcox, một trong những đặc vụ hàng đầu trong cuộc điều tra Mặt Trận, nói rằng bà không nghĩ một trường hợp như vậy sẽ khả thi trong tình hình chính trị của thập niên 1980.
Vào thời điểm đó, Mỹ đã cam kết với cái được gọi là Học Thuyết Reagan, theo đó Mỹ sẽ ủng hộ các phong trào chống Cộng Sản có vũ trang. Mỹ đã ủng hộ phiến quân nổi dậy chống Liên Xô ở Afghanistan, một đội quân đánh thuê trong cuộc nội chiến Angola, và, ít được biết đến, nhóm Contras chiến đấu ở Nicaragua.
Eugene Kontorovich, một giáo sư tại Đại học Luật Northwestern, người đã viết rất nhiều về Đạo luật Trung lập, cho biết ông không ngạc nhiên khi không có cáo buộc nào được thực hiện để truy tố Mặt Trận. Ông nói những truy tố vì Đạo luật Trung lập là cực kỳ hiếm, ngay cả khi các cá nhân và các nhóm rõ ràng đang vi phạm “cốt lõi của những gì mà Đạo luật nghiêm cấm.” Theo ông, sự hiếm hoi của những vụ án ấy có thể làm cho bất cứ nỗ lực truy tố nào dưới Đạo luật này bị cáo buộc là một cuộc truy tố có lựa chọn.
Đối với những vụ án liên quan đến Đạo luật Trung lập, ông Kontorovich nói, “không công tố viên nào muốn trở thành người tiên phong cả.”
Mặc dù các công tố viên liên bang đã không làm gì với bằng chứng cho thấy Mặt Trận đã vi phạm Đạo luật Trung lập, nhiều hồ sơ và những thẩm vấn cho thấy một loạt các cơ quan liên bang – Bộ Ngoại giao, CIA, Bộ Quốc phòng – đã biết rõ về hoạt động và mục đích của tổ chức này.
Theo lời phỏng vấn với một cựu nhân viên Bộ Ngoại giao và cuốn hồi ký của một cựu lãnh đạo Mặt Trận, thực tế là Hoàng Cơ Minh, lãnh đạo của Mặt Trận đồng thời là người giám sát trại huấn luyện của tổ chức ở Thái Lan, đã có một lần gặp quan chức Bộ Ngoại giao Bangkok để thảo luận về kế hoạch xâm lược Việt Nam của ông.
Nhưng nhân vật được Mặt Trận coi là quan trọng nhất để liên lạc trong chính quyền Mỹ là ông Richard Armitage.
Ông Armitage là một người với lịch sử lâu dài và sâu nặng ở Việt Nam. Ông từng là một sĩ quan trong lực lượng Hải quân Mỹ trong chiến tranh, và đã gặp và kết bạn với ông Minh trong những năm 1970. Ông Armitage sau đó được giao nhiệm vụ hỗ trợ việc di tản của Hải quân miền Nam Việt Nam và các sĩ quan khi Sài Gòn sắp sụp đỗ. Sau đó ông Armitage trở thành một quan chức cấp cao trong Bộ Quốc phòng của chính quyền Tổng thống Reagan, làm giám sát chính sách cho khu vực Đông Nam Á. Ông cũng từng là một thứ trưởng ngoại giao cho Tổng thống George W. Bush.
FBI đã phỏng vấn ông Armitage trong quá trình điều tra Mặt Trận. Nội dung của cuộc phỏng vấn năm 1991 đã được ghi trong một bản ghi nhớ báo cáo chính thức, được biết đến theo cách nói của FBI là tài liệu 302. Ông Armitage nói với FBI rằng ông đã tiếp tục giữ mối quan hệ bè bạn với ông Minh trong nhiều năm sau khi ông sang Mỹ năm 1975. Ông cũng nói với FBI là ông tin rằng Mặt Trận có khả năng thực hiện những ám sát chính trị, và ông đã nghe những tin đồn rằng Mặt Trận đã thực sự thực hiện các vụ giết người như vậy ở Mỹ.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/armitage-clipping-900*141-4aa883.jpg[/IMG]
Một tài liệu của FBI tóm tắt nội dung cuộc phỏng vấn năm 1991 của ông Richard Armitage với các nhà điều tra.
Ông Armitage từ chối lời mời phỏng vấn của ProPublica và Frontline. Tuy nhiên, ông đã trả lời các câu hỏi bằng văn bản. Ông Armitage viết rằng ông coi ông Minh như “một trong những sĩ quan giỏi nhất” mà ông đã gặp ở Việt Nam. Ông xát nhận rằng ông đã nói với FBI về những tin đồn Mặt Trận giết người ở Mỹ, và thừa nhận rằng ông đã không thông báo cho bất cứ ai trong cơ quan thực thi pháp luật về những tin đồn này trước buổi thẩm vấn năm 1991.
Ông Armitage nói với ProPublica và Frontline rằng ông xem ý tưởng của ông Minh về việc xâm lược Việt Nam là một “việc làm của thằng ngốc.” Nhưng, ông Armitage cho biết, ông có hỗ trợ ông Minh trong việc thiết lập căn cứ tại Thái Lan: Armitage nói ông đã xác minh uy tín của ông Minh với các đối tác Thái Lan của ông.
ProPublica và Frontline không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ tài chính cho Mặt Trận. Thật vậy, ông Armitage cho biết ông ta đã nói rõ với các quan chức Thái Lan rằng Hoa Kỳ sẽ không có chương trình chính thức nào để hỗ trợ cho mục đích quân sự của ông Minh.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của ông Armitage dường như đã được đền đáp: Một tướng Thái tên Sutsai Hatsadin đã trở thành người bảo trợ của Mặt Trận, cho phép ông Minh thiết lập cơ sở du kích của mình trên một mảnh đất xa xôi trong khu rừng rậm ở Đông Bắc Thái Lan, không xa sông Mekong và biên giới Lào.
Nằm trên đỉnh một ngọn đồi, căn cứ của ông Minh cách ngôi làng gần nhất sáu giờ đi bộ mệt mõi. Trong khoảng thời gian đó, ông và người của ông đã dọn sạch cây cối và xây dựng các khu nhà thô sơ bằng gỗ. Ông đã lôi kéo được vài trăm người đến khu trại, huấn luyện họ những chiến thuật du kích và trang bị cho họ vũ khí hạng nhẹ và đồng phục.
Một tài liệu được giải mật năm 1984 của CIA nói rằng ông Minh và đội quân của ông đã được tài trợ bởi tiền đóng góp của đồng bào tị nạn Việt Nam cũng như “sự hỗ trợ khiêm tốn bí mật từ ‘những nhân tố nào đó’ trong Quân đội Hoàng gia Thái Lan.” Tiền Mặt Trận huy động được ở Mỹ được chuyển đến Thái Lan định kỳ bằng bưu điện.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/hcm-typewriter-421*311-0e2bbc.jpg[/IMG]
Những cựu thành viên Mặt Trận cho biết ông Hoàng Cơ Minh đã giết các binh sĩ của chính mình tại căn cứ ở Thái Lan.
Việc gây quỹ của tổ chức đã cho phép họ mua nhiều loại vũ khí hạng nhẹ như súng AK-47, súng M16 và tên lửa chống tăng M72, theo các cuộc phỏng vấn với các thành viên Mặt Trận cũng như binh sĩ chống cộng khác trong cùng khu vực thời đó cho biết. Kế hoạch của ông Minh là di chuyển về phía đông, vượt sông Mekong và băng ngang qua Lào trước khi xâm nhập vào Việt Nam.
Sau một chuyến xe tải đường dài trên nhiều con đường bùn đất trơn trượt và xuyên qua các vùng nông thôn Thái Lan, ProPublica và Frontline tìm thấy một trong những đồng minh cũ người Lào của ông Minh đang sinh sống tại một làng nông thôn. Người đàn ông này nói ông Minh rất tàn bạo trong việc trừng phạt những người mất lòng tin vào sứ mạng. Người chiến binh Lào, cùng với năm người khác đã gia nhập Mặt Trận và lặn lội đến căn cứ ở Thái Lan, chia sẻ rằng ông Minh đã xử tử lên đến 10 người lính của ông vì tội bất phục tùng hoặc thiếu lòng cống hiến. Có thể một hoặc nhiều trong số họ là công dân Hoa Kỳ.
FBI đã nhận được ít nhất một báo cáo về các vụ giết người trong khu trại này. Năm 1986, một thành viên của Mặt Trận đã bỏ trốn và liên lạc với cục điều tra tại Honolulu, ông báo với các đặc vụ rằng có hai tân binh đã bị giết trong trại. Không rõ là FBI đã làm gì với thông tin này.
Bản cáo trạng công bố ghi ngày 10 tháng 4 năm 1991 bởi các công tố viên liên bang ở San Jose có khả năng là một cơ hội để kết thúc chiến dịch khủng bố của Mặt Trận. Năm thành viên của Mặt Trận đã bị cáo buộc lấy hàng chục ngàn đô-la được quyên góp cho nỗ lực kháng chiến ở nước ngoài để sử dụng cho cá nhân mình, và rồi không trả thuế cho số tiền đó.
“Số tiền đóng góp, một khi được chuyển thành tiền cá nhân, được xem là thu nhập cho các bị can, mà họ đã không báo cáo hoặc kê khai với Sở Thuế Vụ,” bảng cáo trạng ghi rõ.
Hai trong số các bị can chịu mức án lên đến 20 năm tù. Một bị can khác 15 năm.
Doug Zwemke, một cựu sĩ quan cảnh sát San Jose, người đã giúp các công tố viên liên bang xử lý vụ gian lận thuế này, nói ông tin rằng vụ xét xử này sẽ làm các bị can “quay đầu,” và sẽ cung cấp thông tin về các tội ác của Mặt Trận đối với các nhà báo và những người khác để đổi lấy mức án nhẹ hơn.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/us-attourney-press-release-464*599-1cdee9.jpeg[/IMG]
Một vụ gian lận thuế liên bang trong thập niên 1990 đã đem đến hy vọng cho các nhà điểu tra mà đang tìm cách giải quyết các tội ác khủng bố và những vụ ám sát.
“Mắc lỗi là bản chất con người,” ông Zwemke nói, “còn mách lẻo là thánh.”
“Vậy mình sẽ quây đầu họ lại, và họ sẽ đầu hàng,” ông Zwemke lý luận. “Và sau đó mình sẽ ngồi xuống bắt đầu điền vào biểu đồ tổ chức.”
Ông ta nói, rất có thể các nhà chức trách đã có khả năng thu thập thông tin về, và tiếp đó truy tố, “các sát thủ, các kẻ giết người.”
“Nó có thể dẫn đến nhiều manh mối,” ông Zwemke nói.
Vụ án trốn thuế được tiến hành trong nhiều năm, và nó đã bắt đầu với một lời mách từ một trong những người cung cấp thông tin của ông Zwemke tại San Jose, một trung tâm của người Mỹ gốc Việt.
Cùng làm việc với FBI và ông Zwemke, các đặc vụ của Sở Thuế Vụ đã chịu khó theo dõi đường dây di chuyển tiền thông qua một mạng lưới khá phức tạp bao gồm các tài khoản ngân hàng và doanh nghiệp do Mặt Trận kiểm soát từ năm 1984 đến 1987. Tiền đổ vào các tài khoản ngân hàng của Mặt Trận ở California từ những người đóng góp trên khắp thế giới. Tổ chức đã chuyển nhiều khoản tiền lớn đến Bangkok, lẽ là để dùng cho quân đội ở Thái Lan. Nhưng một số tiền được cho là đã di chuyển vào tài khoản cá nhân của những cán bộ Mặt Trận hàng đầu, bao gồm cả em trai của ông Minh, Hoàng Cơ Định, người có đến ba bí danh. (Ông Định đã từ chối nói chuyện với ProPublica và Frontline về vụ này.)
Các thành viên Mặt Trận bị truy tố khẳng định họ vô tội.
Để biện hộ cho họ, các luật sư của họ lập luận rằng các thành viên Mặt Trận phải được miễn truy tố vì họ đã ký một thỏa thuận bí mật với CIA và Bộ Quốc phòng. Để đổi lấy sự giúp đỡ của họ trong việc xác định các tù nhân Mỹ ở Việt Nam, các cơ quan chính phủ đã cho phép Mặt Trận làm bất kỳ điều gì họ muốn với số tiền quyên được ở Mỹ.
Các công tố viên đã cười chế giễu luận điệu này. Một luật sư bào chữa, được phỏng vấn gần đây, khẳng định là có bằng chứng để chứng minh quyền lợi này của những bị can, nhưng ông lại không tiết lộ cũng không nói thêm gì về nó.
ProPublica và Frontline đã tìm cách thu thập toàn bộ hồ sơ vụ án này để dựng lại những gì đã xảy ra. Đáng ngạc nhiên, nhân viên tòa án liên bang ở San Jose và San Francisco cho biết các hồ sơ đã bị mất, và Trung tâm Dữ liệu Liên bang, nơi lưu trữ các hồ sơ tòa án cũ, cũng không thể tìm thấy các tài liệu này.
Văn phòng Chưởng lý tại San Francisco hiện nay cũng không bình luận về vụ này. Bộ Quốc phòng và CIA cũng đều từ chối nói về Mặt Trận.
Một vài hồ sơ tòa án sót lại, cũng như các cuộc phỏng vấn với một số người liên quan, cho thấy vụ việc đã được đóng lại một cách bất ngờ, không thỏa mãn. Ngày 04 tháng 1 năm 1995, khoảng bốn năm sau khi bản cáo trạng được công bố, Thẩm phán James Ware đã chủ tọa một buổi điều trần theo đề nghị của các luật sư bào chữa cho các thành viên Mặt Trận. Các luật sư cho rằng thân chủ của họ đã bị từ chối quyền được xét xử nhanh chóng. Ngài thẩm phán, có vẻ xấu hổ, thừa nhận rằng họ nói đúng, và phát quyết bãi bỏ vụ kiện.
Ông Zwemke nói rằng ông nghe về việc vụ án bị bãi bỏ qua một cú điện thoại từ văn phòng công tố. Luật sư văn phòng Chưởng lý nói đơn giản một câu, “Xin lỗi, tôi quên không theo dõi đồng hồ” – ông Zwemke kể lại.
“Các anh đùa với tôi à.”
Các công tố viên xác định là họ không thể làm lại vụ án – nhiều tội cáo buộc đã xảy ra cả chục năm trước, và các nhân viên thực thi pháp luật cho biết thời hiệu pháp lý cho vụ kiện mới đã hết hạn. Các điều tra viên kết luận rằng việc tìm kiếm bằng chứng mới hơn sẽ khó khăn, vì Mặt Trận đã cải tiến kỹ thuật kế toán của mình.
“Họ đã bắt đầu cẩn thận hơn về những gì họ đang làm, vì thế những sơ hở trên giấy tờ trước đây, bây giờ sẽ không còn nữa” – cựu đặc vụ FBI Tang-Wilcox nói.
Bà nói là cơ hội mà bà đã chờ đợi, một vụ án mà có thể làm rạn nứt vỏ bảo vệ của Mặt Trận, “đã đi qua.”
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/0017_ZWEMKE_04-edit-900*506-9166ac.jpg[/IMG]
Cựu Trung sĩ Cảnh Sát, ông Doug Zwemke, người đã giúp điều tra vụ gian lận thuế của Mặt Trận, được công tố viên liên lang gọi điện thoại thông báo rằng vụ án này đã bị bãi bỏ. (
Nguồn từ Frontline)
Ông Zwemke rất bức xúc. Bên cạnh những vấn đề khác, người cung cấp thông tin mà đã cho ông manh mối đầu tiên cũng đã bị giết chết trong quá trình điều tra.
“Cho dù anh ta bị giết vì đã giúp tôi hay vì Mặt Trận,” ông Zwemke nói, “kẻ giết người vẫn chưa bị bắt.”
Theo một bản ghi nhớ của FBI, tin tức về việc cáo trạng bị bãi bỏ đã “tạo một làn sóng kích động” xuyên cộng đồng người Việt tại Mỹ vốn đã hoài nghi về mức độ quan tâm của giới chức thi hành pháp luật Mỹ đến việc điều tra hành vi bạo lực của Mặt Trận. Cục điều tra kết luận rằng kết quả của vụ việc – dựa trên “một lý do kỹ thuật trong pháp lý” – chỉ làm sâu sắc hơn sự hoài nghi trong lòng cộng đồng người Việt tại Mỹ.
Cuối năm 1995, ông Louis Freeh, giám đốc của FBI thời bấy giờ, đã tới thăm văn phòng FBI tại San Francisco, nơi mà chuyên gia điều tra Tang-Wilcox đã miệt mài theo đuổi vụ án Mặt Trận.
Trong quá trình nhiều năm mà bà đã thường làm việc một mình, bà đã thu được cả núi tài liệu từ đồng nghiệp khắp nơi, và đã lùng sục tìm cách kết nối Mặt Trận với hơn hai mươi hành vi phạm tội.
Cuối cùng khi được ban cơ hội nói chuyện với ông Freeh, bà Tang-Wilcox cho biết bà đã yêu cầu trực tiếp với ông trước sự hiện diện của các đặc vụ khác rằng: Cho cho tôi nguồn lực cần thiết để theo đuổi vụ án này, nếu không thì đóng nó lại.
Gần 15 năm sau khi cái chết của ông Lâm trở thành biểu tượng của một thông cáo trong giai đoạn đầu về chiến thuật của Mặt Trận, ông Freeh đã quyết định đưa vụ án này lên vị trí ưu tiên. Cuộc điều tra được chính thức công bố là một “vụ án lớn,” căn cứ trên dạng tội phạm có tổ chức và mang tính khủng bố trong nước. Sự thay đổi này đã cung cấp cho vụ án thêm nhân lực đặc vụ.
Kết hợp với khoảng sáu đặc vụ khác, bà Tang-Wilcox đã thực hiện được nhiều việc đáng kể. Bà đã sang Pháp để phỏng vấn một nhà văn mà đã bị đánh bất tỉnh tại khu Little Saigon của Quận Cam vào năm 1988. Các đồng nghiệp của bà ở Washington, DC cũng thực hiện khoảng 200 cuộc phỏng vấn liên quan đến vụ ám sát của Lê Triết và Đỗ Trọng Nhân, hai đồng nghiệp từ tạp chí Tiền Phong. Phòng kiểm tra bằng chứng hình sự của cục điều tra đã kiểm tra lại những bằng chứng mà các cơ quan cảnh sát địa phương đã thu thập được từ nhiều năm trước; ví dụ, trong trường hợp của ông Lâm, các đặc vụ đã cố gắng so sánh các viên đạn được lấy từ cơ thể của ông với một khẩu súng trong cơ sở dữ liệu của FBI.
Tên mã FBI đặt cho vụ án này là VOECRN, tức tổ chức Việt Nam _Diệt Cộng Hưng Quốc Đảng. Các đặc vụ tin rằng Mặt Trận sử dụng tên này chỉ để lãnh trách nhiệm cho các hành vi khủng bố mà chính họ đã gây ra. Trong các tập tin bằng chứng có những lời đề nghị làm người cung cấp thông tin cho Mặt Trận; có danh sách những người bị nghi ngờ là “sát thủ,” rõ ràng cho thấy các đặc vụ tin rằng Mặt Trận có một đội sát thủ, được gọi là “K-9.” Đồng thời cũng có cơ đồ tổ chức của Mặt Trận.
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/0011_KATHERINE_TANG-WILCOX-cropped-900*900-510428.jpg[/IMG]
Bà Katherine Tang-Wilcox là một trong những nhà điều tra chỉ huy trong vụ việc theo đuổi Mặt Trận của FBI. (
Nguồn từ Frontline)
Các tập tin tài liệu - từ cả trước và sau khi vụ án được công bố là một vụ án lớn - cũng biểu hiện sự pha trộn giữa sự lạc quan không thường xuyên và sự thất vọng nhất quán của các đặc vụ. Trong một bản ghi nhớ, một đặc vụ cân nhắc về sự “phức tạp quá mức” của cuộc điều tra. Một phần của sự phức tạp này là vì lúc ấy các băng đảng và những kẻ tống tiền đang dùng bạo lực quấy nhiễu cộng đồng người Việt. Bất cứ hành động bạo lực nào, các đặc vụ viết, cũng có thể có nhiều lý do. Và rồi họ có một bản ghi nhớ được gọi là “sự mất lòng tin vốn có đối với các cơ quan thực thi pháp luật và chính phủ” trong cộng đồng người Việt tại Mỹ.
Trong nội bộ, các đặc vụ thừa nhận là sẽ có một sự trả giá rất cao nếu họ không giải quyết được những tội ác này. Một bản viết tay của một đặc vụ ở Los Angeles vào năm 1991 cảnh cáo lãnh đạo cấp cao về nguy cơ của việc ngừng điều tra quá sớm.
“FBI sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để trả lời, ngay bây giờ hoặc trong tương lai, chất vấn từ các dân biểu và nhà vận động hành lang người Việt về tại sao cuộc điều tra bị đóng,” đặc vụ này viết. Trong số một nội dung khác, đặc vụ ghi thêm, FBI sẽ phải giải thích tại sao sau nhiều năm, FBI vẫn thất bại trong việc thâm nhập vào hàng ngũ cấp cao của Mặt Trận.
Các cuộc phỏng vấn với những cựu đặc vụ và công tố viên của vụ điều tra này gợi ý rằng bất chấp việc tác hợp nguồn lực vào năm 1995, nhiều đặc vụ xem nó như một đứa trẻ không cha trong FBI. Một đặc vụ đã về hưu, người mà từng theo đuổi các manh mối, mô tả vụ án như là một cuộc “đuổi ngỗng trong hoang dã,” được thúc đẩy bằng chẳng gì khác ngoài “thuyết âm mưu.” Một đặc vụ khác cũ tỏ vẻ miệt thị đối với các nạn nhân, và cho rằng việc họ quyết định lên tiếng về các vấn đề gây tranh cãi làm cho họ không xứng đáng với sự cảm thông. Một số đặc vụ chỉ trích cựu lãnh đạo Tang-Wilcox - họ cho rằng bà không thực tế.
“Nó không phải là vụ án mà ai ai cũng muốn đối chọi,” bà Tang-Wilcox thừa nhận.
Ngược lại, các đặc vụ háo hức muốn tham gia vào cuộc săn lùng Unabomber, kẻ vô chính phủ mà đã viết một bản tuyên ngôn 35.000 chữ chống nền công nghệ và gửi chất nổ tới các giám đốc điều hành hãng hàng không, các nhà giáo dục, và những người khác. Lực lượng đặc nhiệm tìm kiếm kẻ ném bom nối tiếp này – kẻ đã giết 3 và làm tổn thương 24 người – tăng lên đến hơn 150 nhân viên toàn thời gian, nhiều người trong số họ làm việc tại văn phòng San Francisco. Nhờ có một manh mối từ người anh của kẻ sát nhân, FBI đã bắt hắn vào năm 1996.
Những năm dẫn đến thời điểm mà các đặc vụ liên bang hoàn toàn công nhận bản chất chính trị của bạo lực đối với các nhà báo Mỹ gốc Việt đã khá tốn kém. Kiểm tra của ProPublica và Frontline cho thấy trong năm 1995, khi FBI biết về 30 mối đe dọa giết người và thông cáo nhận hành vi tội ác mà các đặc vụ đã nghi ngờ là do Mặt Trận ban hành, cục điều tra mới nhận ra rằng 19 trong số các bản gốc của các tài tiệu đó chưa bao giờ được thu thập hoặc đã bị phá hủy hoặc mất.
Và trong khi tài liệu FBI cho thấy các đặc vụ đã triệu tập tài khoản điện thoại của khoảng 80 người, bà Tang-Wilcox cho biết cục điều tra lúc ấy chưa phát triển được đầy đủ thông tin chi tiết để có được chấp thuận pháp lý cho phép nghe lén điện thoại từ một thẩm phán. Những trở ngại đó, các đặc vụ và công tố viên thừa nhận, giúp giải thích tại sao, mặc dù đại bồi thẩm đoàn liên bang đã triệu tập tại San Francisco vào năm 1980 và một lần nữa vào những năm 1990, không một cáo trạng nào liên quan đến các hành vi bạo lực này đã được ban hành.
Ông Johnny Nguyễn đã trình diện trước một trong hai đại bồi thẩm đoàn này. Trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, theo FBI, ông Johnny Nguyễn đã sở hữu một cửa hàng tiện lợi ở Houston và làm việc dưới một vai trò nào đó tại một văn phòng luật sư địa phương. Ông được cộng đồng người Việt Houston biết đến như một doanh nhân thành đạt. Ông cũng là một cựu trung sĩ trong bộ binh miền Nam Việt Nam và là một thành viên tự hào của Mặt Trận. Cho đến hôm nay, ông nói rằng ông vẫn tôn thờ người sáng lập ra Mặt Trận, Hoàng Cơ Minh.
FBI, với sự giúp đỡ của Sở Cảnh sát Houston, đã tìm cách thu thập tất cả các thông tin có thể về ông Johnny Nguyễn. Một người cung cấp thông tin nói với ban điều tra rằng, trong vai trò “sát thủ trưởng của nhóm K-9 của Mặt Trận,” ông Johnny Nguyễn đã giết ông Đạm Phong, nhà xuất bản báo tại Houston, “bởi vì ông đã xuất bản những bài báo chỉ trích Mặt Trận và các hoạt động của họ.” Hồ sơ cho thấy trong số những người cung cấp thông tin ủng hộ giả thuyết này có một cựu thành viên của Mặt Trận.
Lý do vì sao ông Johnny Nguyễn đã trình diện trước bồi thẩm đoàn, nhiều khía cạnh vẫn còn chưa rõ. Các cựu đặc vụ và công tố viên vì lý do pháp lý không thể thảo luận về chủ đề đó. Nhưng ông Johnny Nguyễn đã tự mình thừa nhận là ông đã làm chứng, và ông lấy việc mình đã không bị buộc tội làm bằng chứng là ông vô tội.
Sau nhiều tháng tìm kiếm, ProPublica và Frontline gặp ông Johnny Nguyễn, giờ trong tuổi 70, trong một bộ vest đen tại lễ tưởng niệm hàng năm của Hoàng Cơ Minh tại Houston. Ông nói rằng ông không hề biết Đạm Phong, làm sao biết đến việc hãm hại ông. Ông thẳng thừng phủ nhận rằng ông đã từng là một thành viên của K-9.
“Cảnh sát tào lao vớ vẩn,” ông nói.
Khi được hỏi Mặt Trận có bao giờ tham gia những hành vi bạo lực nhắm vào các nhà phê bình của nhóm hay không, ông Johnny Nguyễn trả lời, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, “Không bao giờ.”
[IMG]http://static.propublica.org/projects/vietnam/assets/img/generated/0031_JOHNNY_NGUYEN_VAN_XUNG_02-cropped-900*900-d61609.jpg[/IMG]
Ông Johnny Nguyễn nói việc FBI nghi ngờ ông đã từng là sát thủ của Mặt Trận là “tào lao vớ vẩn.” (
Nguồn từ Frontline)
Johnny Nguyễn là một người đàn ông đầy tự hào. Ngày nay, ông đang điều hành một trường học lái xe. Và mặc dù ông thừa nhận ông cần phải gia hạn giấy phép cho chính mình, ông nhất định muốn chứng minh ông không phải là một người già yếu. Trong lúc phỏng vấn, ông bật đứng lên cởi áo khoác và áo sơ mi để khoe bắp tay của mình.
Đối với những ai nghĩ rằng ông ta có khả năng giết người, ông nói, “Tôi nói với họ, ’Được rồi, cứ đi và nói với FBI rằng tôi là K-9. Bảo FBI nhốt tôi lại.’ Tôi nói với họ vậy, ‘Không có bằng chứng. Không có chứng minh.’”
“Họ im lặng.”
Nỗ lực mới năm 1995 của FBI trong cuộc điều tra Mặt Trận kéo dài một vài năm. Cục điều tra không cho biết chính xác vụ án khủng bố trong nước này được đóng sổ khi nào. Nhưng nội dung của bản tuyên bố mà FBI cung cấp cho chúng tôi để đáp ứng những câu hỏi chi tiết về cuộc điều tra của họ có thể cũng sẽ phù hợp nếu được ban hành cách đây 20 năm:
“Những vụ án này được các chuyên gia FBI giàu kinh nghiệm dẫn dắt. Họ đã thu thập bằng chứng và tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn, đồng thời làm việc chặt chẽ với nhóm luật sư của Sở Tư Pháp để xác định những tội phạm đã gây ra các tội ác này và thực thi công lý cho mọi nạn nhân. Bất chấp những nỗ lực đó, sau 15 năm điều tra, các quan chức Sở Tư Pháp và FBI kết luận rằng, cho đến nay, chưa có đủ bằng chứng để truy tố.”
Trong cuộc phỏng vấn với ProPublica và Frontline, bà Tang-Wilcox đã đi xa hơn. Bà bày tỏ sự hối tiếc. “Tôi cảm thấy có lỗi,” bà nói. “Tôi đã không thể mang một ai ra trước công lý, để đem lại sự bình an cho các gia đình nạn nhân’.”
Khi cuộc điều tra liên bang chấm dứt, các vụ án giết người – Lê Triết và Đỗ Trọng Nhân ở Virginia, Phạm Văn Tập ở Garden Grove, California, Nguyễn Đạm Phong ở Houston và Dương Trọng Lâm ở San Francisco – được trả lại cho cảnh sát địa phương, cho phép họ tiếp tục săn lùng sát thủ nếu họ muốn.
Các cơ quan địa phương có vẻ không tha thiết tiếp tục những cuộc điều tra này cho lắm. Sau nhiều tháng cố gắng gặp các thám tử đảm nhiệm vụ án lạnh tại Sở Cảnh Sát San Francisco để hỏi về vụ ám sát Dương Trọng Lâm, ProPublica và Frontline gần đây đã nhận được một cú điện thoại.
Những thám tử này không thể bình luận về vụ án. Họ nói là họ chỉ mới vừa lôi các hồ sơ ra từ kho lưu trữ và bắt đầu đọc chúng mà thôi.
Bookmarks