LANG ANH

Chủ nhật, 13 Tháng 3 2016 14:54

Tháng 3/2016 trong lúc tình hình ngày một nóng trên biển Đông thì tình trạng khô hạn tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long khiến người Việt Nam choáng váng. Vùng đất trù phú và là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, đóng góp chủyếu vào thành tích xuất khẩu gạo từ7 - 8 tr tấn mộtnăm này đang trong tình trạng khô hạn và nhiễm mặn nặng do thiếu nước ngọt. Nguyên nhân trực tiếp do sựsuy giảm dòng chảy trên sông MeKong.



Sông Mekong là một trong mười con sông lớn nhất thếgiới, bắt nguồn từcao nguyên Tây Tạng có chiều dài hơn 4.800 km, diện tích lưu vực 795.000 km2,lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 15.000 m3/s và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỷm3 tại châu thổ, chảy qua lãnh thổcủa 6 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.



Là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất của bất cứthay đổi dòng chảy nào trên sông MeKong, Việt Nam còn đồng thời chịu tác động kép của tình trạng môi sinh toàn cầu, cụthểlà tình trạng nóng lên của trái đất và nước biển dâng. Điều đó khiến toàn bộvùng hạlưu sông Mekong ởViệt Nam sẽcó những biến động thay đổi tuyệt đối vềmôi sinh trong khoảng một thập kỷtới. Tình trạng chung là thiếu nước trên lưu vực sông, tình trạng xâm nhập mặn và hạn hán sẽngày càng gia tăng và đó là một xu thếkhông thểđảo ngược.

Ủy hội sông Mekong (tiền thân là Ủy ban sông Mekong 1957) đã được thành lập từnăm 1995 với sựtham gia của 4 nước tại lưu vực sông, gồm Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia. Dù là nước kiểm soát dòng chảy trực tiếp tại phần thượng nguồn sông Mekong, nhưng Trung Quốc từchối tham gia hiệp hội. Trung Quốc cũng là nước xây dựng những đập thủy điện lớn đầu tiên trên dòng chính của sông Mekong, cũng là nước đang lên kếhoạch và đầu tưxây nhiều đập thủy điện nhất đểkiểm soát con sông này. Tính đến nay TQ đã hoàn thành ít nhất 8 đập chính trên sông Lan Thương (dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong) và đang xây tối thiểu thêm 4 đập nữa. Trung Quốc cũng là nhà đầu tưchủyếu đứng sau xây dựng các đập thủy điện tại dòng chính hạlưu sông Mekong ởLào và Campuchia. Ủy hội sông Mekong đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu khoa học và đưa ra nhiều cảnh báo đểhạn chếvà tạm dừng quá trình xây các đập trên sông Mekong đểđảm bảo sựphát triển bền vững của tất cảcác nước mà con sông chảy qua. Theo tính toán của Ủy hội này, lợi ích thu được từviệc phát triển thủy điện nhỏhơn rất nhiều so với các tổn thất mà nó gây ra, cụthểvềbiếnđổi môi trường, thiệt hại nghềcá, thiệt hại nông nghiệp, sựtuyệt chủng của nhiều loại động thực vật... Tuy nhiên, sựcảnh báo và các kiến nghịcủa Ủy hội sông Mekong bịvô hiệu hóa hoàn toàn với lập luận của Trung Quốc: “Trung Quốc có toàn quyền xây dựng bất cứthứgì trên sông Mekong ởphần lãnh thổcủa nước mình”. Thái độvô trách nhiệm hoàn toàn này của TQ đã vô hiệu hóa hoàn toàn các nỗlực bảo vệviệc khai thác bền vững dòng sông quốc tế. Bịthúc đẩy và nêu gương bởi lối tưduy ích kỷcủa TQ, tất cảcác nước tại hạlưu sông Mekong gồm Lào, Thái Lan và Campuchia đều lên kếhoạch xây dựng những đập thủy điện cực lớn trên dòng chính con sông. Và Trung Quốc đang đẩy nhanh quá trình này với vai trò là nhà đầu tưcung cấp vốn chính yếu.


Phân bốcác dựán thủy điện trên sông Mekong

Các đập thủy điện sẽbiến khoảng 55% độdài sông ởhạlưu thành những hồchứa nước và làm biến đổi dòng chảy, từđó thay đổi bản chất tựnhiên cũng nhưmôi trường sinh thái của dòng sông. Vấn đềđáng nói ởđây là trong 12 thủy điện trên dòng chính sông Mekong (không tính dòng nhánh) sắp được xây dựng thì lại không có thủy điện nào ởViệt Nam, trong khi tổn thất mà quốc gia nằm cuối hạnguồn nhưViệt Nam phải gánh chịu là lớn nhất. Có thểnói bằng chính sách và các hành động trên thực tếcủa mình, Trung Quốc đã rất thành công trong việc loại bỏhoàn toàn vai trò của Ủy hội sông Mekong và biến việc kiểm soát nguồn nước tại con sông quốc tếnày thành một thứvũ khí rất lợi hại. Tấtnhiên, đích nhắm chủyếu của nó là quốc gia nằm ởhạnguồn, nơi con sông chảy ra biển, chịu thiệt hại lớn nhất, và đó chính là Việt Nam.

Không phải đến bây giờViệt Nam mới nhận thức được tính nguy cấp của tình hình. Việt Nam từng nỗlực nhiều lần đểtrì hoãn tiến độxây đập Xayaburi tại Lào và khuyến cáo các nước Thái Lan, Campuchia cùng phối hợp đểkhai thác dòng sông bền vững. Tuy nhiên bài toán kinh tếđược mất của các quốc gia này không giống Việt Nam. Và họkhông thểngồi yên hy sinh lợi ích kinh tếtrước mắt đểduy trì tính bền vững của con sông khi Trung Quốc đã phá hoại nó có hệthống trên thượng nguồn. Trong mọi tình huống, Việt Nam phải chấp nhận thực tếrằng nguồn nước chảy vềViệt Nam trên lưu vực sông Mekong sẽngày càng giảm trong mùa khô hạn.


Dữ liệu thủy văn năm 2010, lượng nước chảy qua Châu Đốc thấp nhất trong 85 năm qua

Nguồn nước suy giảm trên sông Mekong, tình trạng xâm nhập mặn tăng nhanh và nguy cơnước biển dâng đang là những đe dọa sống còn đến vùng đồng bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, thực sựđây đã là một lời nguyền sông Mekong đối với vựa lúa lớn nhất của Việt Nam. Và ngày 10/03/2016, trước tình trạng khô hạn trên diện rộng ởmiền Tây, thủtướng Nguyễn Tấn Dũng buộc phải gửi công hàm cho Trung Quốc đểđềnghịTQ xảđập thượng nguồngiúp cải thiện tình hình. Trái với thái độhung hăng tại biển Đông, TQ hỷhảnhận lời. Liệu có phải TQ tựnhiên tốt đột xuất với Việt Nam nhưvậy chăng? Hoàn toàn không, Trung Quốc đang rất vui và muốn công bốvới thếgiới và người Việt Nam rằng, vũ khí nguồn nước sông Mekong của Trung Quốc với Việt Nam đã thành hiện thực trên thực tế.

Nó giống như một lời nguyền ám ảnh dai dẳng. Vậy đâu là lời giải cho lời nguyền không thểtránh khỏi này???

Nhiều chuyên gia của Hà Lan khi sang nghiên cứu tình trạng ngập mặn tăng nhanh và tính toán ảnh hưởng của nước biển dâng, đã đưa ra dựtoán cần tới trên dưới 50 tỷUSD và nhiều thập niên đểViệt Nam xây dựng các con đập tại các cửa sông nếu muốn kiểm soát tình trạng xâm nhập mặn do dòng chảy suy thoái và tình trạng nónglên của trái đất (Hà Lan, nước có phần lớn lãnh thổnằm dưới mực nước biển là nước có kinh nghiệm nhất trong việc xây dựng các con đê lấn biển và đập kiểm soát dòng chảy tại cửa biển). Rõ ràng điều này là không tưởng, vì Việt Nam không đào đâu ra ngần ấy tiền và phương án xây dựng các đập kiểm soát dòng chảy cửa sông với một địa hình phức tạp nhưViệt Nam hiện không có lời giải trên thực tế. Cũng không thểtrông đợi gì vào việc Trung Quốc tựnhiên bột phát thiện tâm, dỡbỏcác đập thượng nguồn và tựnguyệntham gia Ủy hội Sông Mekong đểphát triển môi trường bền vững.

Cần có một tưduy khác trong việc phát triển và khai thác đồng bằng sông Cửu Long ởViệt Nam. Việt Nam trước hết phải xây dựng các chiến lược và kếhoạch dựa vào chính mình, chứkhông thểđểlệthuộc vào các nước khác. Trong những ngày khô hạn kỷlục ởmiền Tây, có một bức thưrất gây chú ý của Giáo sưVõ Tòng Xuân, một chuyên gia nghiên cứu nông nghiệp gắn bó nhiều năm với hạlưu sông Mekong, nguyên văn:

“Xin đừng quá bi quan trước hiện tượng lúa bị chết mặn như báo chí đã loan tin. Họ không loan tin về các nông dân nhờ có nước mặn mà nuôi tôm rất thành công (giá trị gấp 3-4 lần lúa), và họ không hề lên tiến dùm những nông dân nuôi tôm bị chết vì thiếu nước mặn do địa phương ngăn mặn để cứu lúa, nhưng lúa không đủ nước ngọt nên lúa cũng thiệt hại theo tôm.

Đây là lỗi của Bộ Nông nghiệp và chánh quyền các tỉnh có bờ biển tiếp giáp, chỉ biết trồng lúa-lúa-lúa bất chấp thiên nhiên không cho phép, họ tốn hàng chục ngàn tỉ đồng để làm ngọt hóa bán đảo Cà Mau, nhưng kết quả là nước ngọt vẫn không đủ cho ngọt hóa. Chỉ mấy ông làm thủy lợi mới hưởng lợi vì có ximăng, sắt thép, bê tông để xơi.

Chúng ta đều thấy rằng thời kỳ cả nước ai ai cũng lo cho an ninh lương thực đã qua rồi vì nay ta sản xuất dư thừa để xuất khẩu 7-8 triệu tấn/năm với giá bèo như vậy. Nông dân trồng lúa của ta đã 40 năm rồi mà vẫn là những người nghèo, họ bị hô hào phải trồng lúa thật nhiều (để cho người ta được thăng quan tiến chức). Đã đến lúc cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương và các phương tiện truyền thông do Ban Tuyên Giáo chỉ đạo phải đổi mới tư duy làm kinh tế, chọn lựa hướng sản xuất và tìm đầu ra cho các hướng đó thế nào để có giá trị cao hơn mà không tiêu xài quá nhiều nước ngọt - tài nguyên thiên nhiên không tái tạo. Tư duy về nước mặn là kẻ thù, phải ngăn mặn, không còn hợp thời này nữa. Phải coi nước mặn là bạn, giúp nông dân ven biển làm giàu với tôm, cua... một cách bền vững hài hòa thiên nhiên. Những vùng theo hệ thống lúa-tôm của Sóc Trăng hiện nay được giàu có nhờ trồng lúa rất thành công trong mùa mưa và sau khi dứt mưa thì cũng vừa gặt lúa xong, liền cho nước mặn vào nuôi tôm. Đến mùa mưa tới, nông dân trở lại trồng lúa.

Chúng ta hãy thay đổi tư duy, không buộc nông dân trồng lúa quá nhiều để cho quan lên chức và nuôi dân các nước khác có ăn để họ làm giàu nhờ sản xuất các sản phẩm giá trị hơn lúa.

GS.TS Võ Tòng Xuân gửi trực tiếp qua e-mail Sài Gòn 8/3/2016
Prof. Dr. Vo-Tong Xuan Rector Emeritus, An Giang University Rector, Nam Can Tho University”

Ý kiến của giáo sưVõ Tòng Xuân rất gây chú ý, và có lẽlà một gợi mởtốt cho vấn đề. Nếu việc suy giảm dòng chảy trên sông Mekong là không thểthay đổi được, nếu tình trạng xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long là không thểchặn lại được, cũng giống nhưViệt Nam không thểlàm gì đểthay đổi thực trạng nước biển dâng trong tương lai, thì thay vì việc chặn dòng xâm nhập mặn, hãy tìm cách khai thông và sống chung với nó.

Dựtính sẽcó tới 10 tỉnh ởViệt Nam sẽchịu ảnh hưởng nặng do tác động chung của vấn đề, tương đương với 29.827 km2 (lưu ý rằng diện tích này gần xấp xỉ10% diện tích lãnh thổtoàn Việt Nam), trong đó 38% diện tích đất sẽbịngập hoàn toàn. Mức tác động do đó vô cùng lớn. Và đểthích ứng với tình hình, cần có những chiến lược quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn khác.


Thống kê các tỉnh chịu ảnh hưởng do biến động của tình hình

Có 3 giải pháp Việt Nam cần thực hiện ngay lập tức đểđối phó với tình hình:

1. Dành ngay một ngân khoản ngay lập tức cho việc nghiên cứu thống kê các vùng đất chịu tác động trực tiếp của xâm nhập mặn, không còn thích hợp với trồng lúa, đặc biệt là các vùng có khảnăng ngập trong tương lai do nước biển dâng, đểxây dựng lại quy hoạch vềphân vùng phát triển nông nghiệp ởViệt Nam. Giữlại những khu vực cho năng xuất cao đối với sản xuất lúa gạo, và phát triển đồng bộcác vùng này với các giống lúa có chất lương cao đểtạo tương hiệu và nâng cao chuỗi giá trịcho người dân. Với các vùng ngập mặn, quy hoạch lại định hướng phát triển nông nghiệp đểchuyển sang thủy hải sản.

2. Nghiên cứu chi tiết các kếhoạch khai thông dòng chảy đểdẫn nguồn nước biển vào sâu các vùng ngập mặn phục vụcho quy hoạch nuôi tôm. Đồng thời nghiên cứu và xây dựng hệthống cấp nước sinh hoạt dẫn tới các vùng này thay thếcho nguồn nước mặt và nước ngầm, đểđảm bảo duy trì đời sống của con người. Chắc chắn chi phí cho những dựán này sẽnhỏhơn rất nhiều so với những dựán thủy lợi tốn kém nhiều chục nghìn tỷtừtrước đến nay ởkhu vực đồng bằng sông Cửu Long.

3. Phối hợp việc xây dựng các vùng nuôi trồng thủy sản mới với sựphát triển của các doanh nghiệp chếbiến và xuất khẩu thủy hải sản. Nghiên cứu kỹyếu tốthịtrường và làm tốt công tác dựbáo, tránh việc chuyển đổi ồạt sang nuôi trồng thủy sản khiến nguồn cung tăng đột biến và không tháo gỡđược đầu ra. Chính phủphải làm tốt vai trò của mình trong việc hỗtrợvà đào tạo kiến thức nuôi trồng cho người dân, bao gồm cảviệc nghiên cứu và kiểm soát con giống, thức ăn, cảnh báo thịtrường ... đểđảm bảo quá trình chuyển đổi là phù hợp và mang lại lợi ích bền vững cho người dân thay vì việc đểhọbơvơtựbươn chải.

Kết luận:

Vũ khí nước của Trung Quốc đã thành hình và lời nguyền sông Mekong đối với Việt Nam cũng đã thành hiện thực. Không thểgiao phó sốmệnh quốc gia cho lòng thương hại của đối phương, Việt Nam cần và hoàn toàn có thểứng phó được với thực trạng này bằng chính các giải pháp từbên trong của chính mình. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn nằm trong các nỗlực của chính quyền vì không người dân nàocó thểtựphát làm quy hoạch. Các kếhoạch đầu tưkhai thông dòng chảy dẫn nước biển và hệthống cấp nước sinh hoat cho các vùng ngập mặn cũng chỉcó thểđược thực hiện với vai trò nhà nước. Nếu nỗlực tốt, Việt Nam hoàn toàn có thểđối mặt với tình hình và biến thách thức thành cơhội:

- Giá trịkinh tếcủa nuôi trồng thủy hải sản cao hơn nhiều so với nông nghiệp truyền thống;

- Việc suy giảm diện tích trồng lúa khiến giá trịcác sản phẩm trên vùng trồng lúa còn lại sẽcao hơn theo quy luật thịtrường. Vàchính việc suy giảm này sẽlàm tăng ý thức giúp người dân có ý thức khai thác các giống lúa có giá trịcao hơn, đểsửdụng hiệu quảhơn phần diện tích lúa còn lại.

Tất cảnhững điều này sẽgiúp Việt Nam thích ứng bền vững với tình hình. Và điều quan trọngnhất là vẫn kiểm soát được vận mệnh quốc gia trong chính bàn tay mình chứkhông phải đặt nó vào tay người khác.

Nguồn tham khảo:

https://www.internationalrivers.org/

http://www.cepf.net/

http://www.husc.edu.vn/khoadia/

http://www.vncold.vn/Web/

http://baodatviet.vn/khoa-hoc/

P/S Có một sốcomment giống nhau nêu sựbăn khoăn vềcùng một câu hỏi, đại loại chuyện gì xảy ra nếu Việt Nam quy hoạch nuôi thủy sản mà TQ xảnước ồạt tại các đập? Và một sốbăn khoăn khác vềan ninh lương thực, vềvấn đềloại tôm nuôi trồng liệu có sống được khi độmặn tăng cao? Các câu hỏi này đã được trảlời nhưng vẫn tiếp tục có thêm những câu hỏi giống thếcủa những bạn đọc sau. Xin cập nhật phần trảlời lên đây đểcác bạn dễtheo dõi:

Việc TQ xảnước ồạt tại các đập do nó quản lý đểphá vỡquy hoạch nếu có của Việt Nam là điều nằm ngoài tầm với của TQ, vì toàn hệthống sông Mekong hiện có tới 94 đập trên các dòng chính và dòng nhánh chảy qua nhiều nước khác nhau. TQ không thểthao túng hết được vì mỗi quốc gia đều sẽsửdụng và điều hành đập phục vụcho lợi ích của chính họ. Mỗi hệthống đập có chu trình tích nước khác biệt phụthuộc đặc điểm lưu vực và hồchứa riêng, không thểcó tình huống phối hợp xảđồng loạt trên toàn hệthống đập. Có thểlấy ví dụngay từhệthống đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình của Việt Nam. Ngay cảvới hai hệthống nằm cùng lưu vực và thuộc hoàn toàn sựđiều phối của Việt Nam, cũng khó có thểxảy ra tình huống đồng thời xảđập ồạt. Ngoài ra, tình trạng nước biển dâng sẽlà không thểđảo ngược, việc này sẽlàm biến đổi tình hình bất kểtình trạng dòng chảy sông Mekong. Giải pháp bền vững nhất của Việt Nam quy hoạch cho vùng thủy hải sản, là xây dựng hệthống kênh dẫn nước biển vào sâu các vùng quy hoạch. Điều đó sẽgiúp bảo đảm nguồn nước nuôi tôm. Tất nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá tác động trong mùa lũ luôn phải xem xét kỹ. Và đó là việc của các nhà chuyên môn.

Với những lo ngại rất có lý vềan ninh lương thực và về giống loại thủy sản nuôi trồng phù hợp khi độmặn tăng cao. Những băn khoăn này là một bổsung tốt đểxem xét vấn đềkỹcàng hơn. Hãy xem bản đồdưới đây vềcác vùng bịxâm nhập mặn và sẽbịngập nước mặn:


Diện tích đất bịxâm thực mặn và chịu ảnh hưởng ngập khi nước biển dâng



Với gần 30 nghìn km2 chịu ảnh hưởng, sẽlàm thay đổi rất nhiều tình hình chung tại đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên phần diện tích đất lúa còn lại vẫn rất lớn và đủđảm bảo an ninh lương thực trong mọi tình huống. Diện tích làm nông nghiệp lúa ít đi đồng nghĩa với lượng nước ngọt cần trong thủy lợi sẽgiảm đi đáng kể. Việt Nam có thểchủđộng xây dựng các đập chứa đểtựchủnguồn tưới cho phần còn lại này trong mùa hạn, hoàn toàn bằng nguồn lực của mình. Đất lúa ít đi khiếnnó quý hơn, người dân do đó cũng sẽcăn cơđểtrồng loại nào mang lại giá trịcao hơn. Điều đó tốt cho họvà cũng tốt cho chuỗi giá trịvà thương hiệu nông nghiệp Việt nam. Vềvấn đềvùng nuôi trồng thủy hải sản nước mặn, nếu lo ngại của các bạn rằng một sốloại tôm sẽchết ởđộmặn cao, vậy thì hãy đểcác nhà chuyên môn nghiên cứu xem loại con giống nào nuôi thích hợp nhất ởvùng đó, ví dụtôm biển, cua, các loại cá nước mặn có giá trịxuất khẩu ... Ngoài ra vẫn có thể trồng một số loại lúa chịu mặn xen kẽvới các chu kỳ nuôi hải sản trong năm, điều đó mang lại tính cân đối vềmọi phương diện. Nói chung việc thích ứng với tình hình một cách chủ động là không thể trì hoãn. Còn việc đấu tranh với TQ qua các diễn đàn quốc tế, cứ làm thôi nhưng chắc rằng hiệu quả sẽ chẳng khả quan vì việc chặn dòng Mekong không chỉ là vì lợi ích mà còn là âm mưu chính trị thâm độc của họ.
Theo FB Lãng